1. Các phân tử nhỏ (thường có đuôi – ib)

Một số tác nhân trong nhóm này là thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR), yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) và các chất ức chế tyrosine kinase bcr-abl.

Các thành viên của các thụ thể EGFR được gọi là HER bao gồm 1-4 erbB (oncogene được mã hoá ERB). Các thuốc phân tử nhỏ ức chế EGFR trên thị trường là geftinib, erlotinib và lapatinib. Geftinib và erlotinib có thể đảo ngược các chất ức chế EGFR cạnh tranh với ATP. Geftinib ức chế hoạt tính của kinase phụ thuộc vào cyclin, ức chế tạo mạch khối u. Đột biến của EGFR trong exon 19-21 cần phải được xác định trước khi bắt đầu điều trị. Lapatinib ức chế không thể đảo ngược các con đường Akt của EGFR, HER2. Thuốc tương tự như lapatinib là neratinib. Neratinib ức chế EGFR-HER4 hoặc EGFR- HER2. Afatinib không chỉ hoạt động chống lại các đột biến EGFR như điều trị bước một, giống erlotinib hoặc geftinib, mà còn có tác dụng với những trường hợp không nhạy cảm với các liệu pháp tiêu chuẩn này.

Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) bao gồm VEGF-A, VEGF-B, VEGF-C, VEGF-D, VEGF-E. Các VEGF tác động trên nội mô mạch tế bào bằng cách tạo ra tính thấm qua mạch, kết quả tạo sự lắng đọng fibrin trong ngoại bào gây ra sự tăng trưởng và di chuyển tế bào. Sorafenib là một phân tử nhỏ ức chế VEGFR 1-3, PDGF-h, thụ thể serine threonine kinase và Raf-1 được chứng minh hiệu quả trong ung thư tế bào gan và ung thư tế bào thận. Imatinib cũng ức chế đột biến c-KIT trong bệnh bạch cầu nói chung và u mô đệm đường tiêu hóa (GIST).

2. Các kháng thể đơn dòng (thường có đuôi –ab)

Kháng thể EGFR: Cetuximab là một kháng thể đơn dòng đóng vai trò trong việc ngăn chặn sự gia tăng, xâm lấn và di chuyển tế bào trong các khối u đặc, như ung thư đại trực tràng và ung thư đầu cổ. Tuy nhiên, trước khi điều trị ung thư đại tràng di căn với cetuximab, cần xác nhận không có đột biến gen K-Ras.

Kháng thể HER2/neu: HER2 là thụ thể xuyên màng với hoạt tính tyrosine kinase. Điển hình của loại này là trastuzumab. Trastuzumab có thể ngăn sự tăng sinh tế bào bằng cách bắt giữ ở giai đoạn G1. Trastuzumab tăng phản ứng miễn dịch của cơ thể thông qua hoạt động các tế bào giết người tự nhiên (NK). Nó được sử dụng rộng rãi cho ung thư vú với Her-2 dương tính (+++). 

VEGF và VEGFR: liệu pháp kháng thể đơn dòng bao gồm trung hòa các kháng thể đối với VEGF (Bevacizumab) hoặc thụ thể của nó, VEGFR (Ramucirumab). Các thuốc này được sử dụng kết hợp với hoá trị liệu tiêu chuẩn cho ung thư đại trực tràng di căn. Ngoài ra được phê duyệt để sử dụng trong một số bệnh ung thư phổi nhất định, ung thư thận, ung thư buồng trứng và u nguyên bào thần kinh (glioblastoma).

Cụm biệt hóa (Cluster of Differentiation-CD): các kháng thể tấn công bề mặt tế bào đánh dấu CD20, CD33 và CD52 trên bệnh nhân lymphoma. Rituximab hoạt động bằng cách kích thích ADCC và CDC, ức chế sự tăng sinh tế bào và kích thích apoptosis. CD20 dương tính là một điều kiện tiên quyết cho điều trị rituximab. Alemtuzumab là một liệu pháp nhắm mục tiêu cụ thể chống lại CD52 và được sử dụng trong điều trị bệnh không Hodgkin có CD30 dương tính.

Điều trị đích tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên đã trở thành thường quy với các bệnh nhân ung thư (vú, đại tràng, phổi, gan, ung thư hạch hệ thống…) do các thầy thuốc cập nhật kiến thức từ đầu ngành, từ các cuộc hội thảo, từ phương tiện internet và dần trở thành địa chỉ tin cậy cho người dân Thái Nguyên và các tỉnh lân cận. Tất cả các bệnh nhân ung thư khi đầy đủ xét nghiệm cần thiết có thể nhập viện Thái Nguyên để hưởng lợi phương pháp điều trị tối ưu nhất này tại Thái Nguyên với chất lượng chuyên môn, thái độ phục vụ chuyên nghiệp và nguồn thuốc đầy đủ.

Địa chỉ liên hệ: TS. Trần Bảo Ngọc, Trưởng Bộ môn Ung thư, Khoa các chuyên khoa, tel 0912232902; email: ngoctranbao72@gmail.com.