1. Tổng quan bệnh Ung thư miệng

Ung thư miệng đang là vấn đề sức khỏe toàn cầu với tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong ngày càng tăng và là một trong 6 ung thư phổ biến nhất. Ở phương Tây, ung thư miệng chiếm 2 – 4% trong các ung thư và có bằng chứng cho thấy tỷ lệ này tăng dần, đặc biệt ở người trẻ. Ung thư miệng là bệnh phát sinh do sự biến đổi ác tính niêm mạc miệng phủ toàn bộ khoang miệng.

Ung thư miệng thường gặp ở môi trên, môi dưới, mép, lợi hàm trên, lợi hàm dưới, khe liên hàm, khẩu cái cứng, lưỡi (phần di động), niêm mạc má và sàn miệng.

Ung thư khoang miệng thường gặp ở tuổi từ 50 - 70 với tỷ lệ nam/nữ khoảng 2,5/1.

2. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của ung thư miệng

Nguyên nhân ung thư miệng chưa được biết rõ, tuy nhiên có rất nhiều yếu tố được xác định là yếu tố nguy cơ gây bệnh. 

- Thuốc lá: Thuốc lá có liên quan đến hầu hết các ung thư khoang miệng ở nam và hơn nửa số ung thư khoang miệng ở nữ. Chỉ có khoảng 2-10% bệnh nhân ung thư đường hô hấp và tiêu hóa trên không hút thuốc lá. Mọi hình thức sử dụng thuốc lá đều làm tăng nguy cơ mắc ung thư khoang miệng (dạng xì gà, tẩu, thuốc lá dạng nhai (chewing), thuốc lá dạng hít (snuff) và hút thuốc lá ngược đầu). Xì gà, hút tẩu có nguy cơ mắc ung thư khoang miệng cao hơn thuốc lá thông thường, hút tẩu còn làm tăng nguy cơ ung thư môi.

- Rượu: Uống rượu cũng là yếu tố nguy cơ của ung thư khoang miệng. Chỉ có dưới 3% bệnh nhân ung thư đường hô hấp và tiêu hóa trên không uống rượu. Rượu và thuốc lá có tác dụng hiệp đồng với nhau. Một yếu tố đơn độc làm tăng nguy cơ mắc bệnh lên 2-3 lần, nhưng khi kết hợp lại, chúng có thể tăng gấp 15 lần.

- Nhai trầu: Người nhai trầu có nguy cơ ung thư khoang miệng cao gấp 4 - 35 lần người không có thói quen này, đặc biệt là nhai trầu thuốc. Nhai trầu có liên quan tới bạch sản - một tổn thương tiền ung thư. Khi nhai trầu niêm mạc miệng phải chịu đồng thời các tác động cơ học và hóa học.

- Virus HPV ( Human Papilloma Virus): Có sự liên quan chặt chẽ giữa ung thư khoang miệng với virus HPV.

- Dinh dưỡng: Thiếu vitamin A và/hoặc ß-caroten là yếu tố nguy cơ gây ung thư biểu mô khoang miệng.

- Hội chứng Plummer - Vinson: là hội chứng có liên quan đến ung thư khoang miệng. Bệnh biểu hiện ở phụ nữ trung niên với tình trạng thiếu máu thiếu sắt, các tổn thương nứt kẽ ở mép, môi, lưỡi đỏ, đau, niêm mạc thoái hóa teo hoặc dạng nhú, bạch sản, nuốt khó.

- Các tổn thương tiền ung thư: Tổn thương tiền ung thư thường gặp trong miệng là bạch sản, hồng sản và xơ hóa dưới niêm mạc. Các tổn thương này chưa phải là ung thư  nhưng có nguy cơ chuyển thành ung thư khi có các tác nhân sinh ung thư tác động vào.

- Bạch sản là tổn thương màu trắng, không mất đi khi gạt. Bạch sản được chia ra 4 loại: dạng phẳng, dạng mụn cơm, dạng loét và dạng chồi. Bạch sản có khả năng trở nên ác tính trung bình là 6%, đối với dạng phẳng là 5%, dạng mụn cơm là 10%, dạng loét là 15-20%  

- Hồng sản là tổn thương màu đỏ, mịn như nhung, hơi nhô cao với tỷ lệ ung thư là 33,3%.

- Xơ hóa dưới niêm mạc là tổn thương mạn tính, gây sẹo xơ trong khoang miệng, biểu hiện bởi các sợi xơ dưới niêm mạc dẫn đến các cử động hạn chế của miệng và lưỡi.

3. Triệu chứng bệnh ung thư miệng

Dấu hiệu ung thư miệng thường không rõ ràng trong giai đoạn đầu, nhiều khi nhầm lẫn với các triệu chứng của bệnh lành tính khác như nhiệt miệng.

3.1. Ung thư miệng giai đoạn đầu:

 

- Cảm giác vướng trong miệng.

- Tăng tiết nước bọt, đôi khi có máu.

- Nói khó.

- Nuốt đau.

- Đau lan lên tai

3.2. Ung thư miệng giai đoạn tiến triển:

- Nuốt đau nhói lên tai.

- Nói khó tăng lên

- Khạc ra đờm nhầy, có lẫn máu, thường có mùi hôi thối.

- 1/3 các trường hợp đến khám vì có hạch cổ, mà chưa có dấu hiệu lâm sàng rõ rệt

- Khối u có thể là nụ sùi, hoặc loét, hoặc vừa sùi vừa loét bờ nham nhở, sờ vào bệnh nhân đau và vướng, u không có ranh giới rõ ràng, cứng, dễ chảy máu. Tổn thương kéo dài không thuyên giảm, khác với nhiệt miệng là vết loét sưng đau ở lưỡi, má và lợi nhưng ranh giới rõ ràng, thường tự khỏi sau 7-10 ngày, vùng niêm mạc có vết loét sẽ nhanh chóng lành lại.

5. Các biện pháp chẩn đoán bệnh ung thư miệng

5.1. Chẩn đoán ung thư miệng tại cộng đồng

Nghiệm pháp Xanh Toluidin: là biện pháp đơn giản, rẻ tiền giúp phát hiện sớm ung thư miệng trong cộng đồng. Kỹ thuật gồm 3 bước:

- Lau, rửa sạch vùng tổn thương bằng acid acetic 1% hoặc xúc miệng bằng nước sạch.

- Bôi dung dịch Xanh toluidin 1% lên vùng nghi ngờ, để trong khoảng 60 giây

- Xúc miệng lại bằng acid acetic 1% hoặc bằng nước sạch

Sau đó, quan sát sự bắt màu của tổn thương: Tổn thương bắt màu xanh sẫm là nghiệm pháp dương tính. Tổn thương bắt màu xanh nhạt hoặc không bắt màu là âm tính. Kết quả dương tính vẫn có thể là dương tính giả với những viêm nhiễm trong khoang miệng. Vì vậy, đây chỉ là biện pháp sàng lọc những nghi ngờ ung thư miệng trong cộng đồng, kết luận chưa chắc chắn. Những tổn thương nghi ngờ cần được gửi đến tuyến chuyên khoa để làm các xét nghiệm khác.

Phát hiện sớm: Nếu phát hiện tổn thương niêm mạc miệng không đặc hiệu như loét, trợt, chảy máu, nứt kẽ…không rõ nguyên nhân, kéo dài quá 2 tuần thì cần đến khám tại các cơ sở chuyên khoa.

5.2. Chẩn đoán ung thư miệng tại các cơ sở chuyên khoa Răng Hàm Mặt:

Dựa vào các thăm khám lâm sàng và các xét nghiệm bao gồm:

- Sinh thiết tổn thương nghi ngờ: Gây tê, nếu khó khăn phải gây mê để sinh thiết, nhất là những trường hợp u thâm nhiễm hoặc khi u ở sâu.

- Khám tai mũi họng, khám hệ thống hạch cổ, hạch dưới hàm, hạch dưới cằm.

- Chụp X-quang thông thường phát hiện tổn thương xâm lấn xương, hay xâm lấn sâu.

- Chụp phim cắt lớp vi tính hay cộng hưởng từ: phát hiện những khối u xâm lấn vào các cơ lưỡi hoặc ở các vị trí khó khám bằng lâm sàng.

- Khám toàn thân: Phát hiện di căn, các ung thư phối hợp hoặc với các bệnh khác, đánh giá khả năng điều trị theo từng bệnh nhân.

6. Các biện pháp điều trị bệnh ung thư miệng

Điều trị ung thư miệng bao gồm điều trị điều trị khối u nguyên phát và hệ thống hạch cổ.

- Phẫu thuật: Chỉ định với bệnh ở giai đoạn sớm, còn khu trú ở khoang miệng, chưa di căn vùng và di căn xa. Phẫu thuật lấy u và hạch cổ có thể kết hợp với tạo hình hoặc không giúp nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân.

- Xạ trị: Chỉ định khi bệnh ở giai đoạn muộn không thể phẫu thuật được hoặc chỉ định xạ trị bổ trợ sau phẫu thuật giúp hạn chế bệnh tái phát.

- Hóa trị: Chỉ định hóa chất trước khi phẫu thuật giúp giảm thể tích của khối u và hạch cổ.

 Tác giả: TS Hoàng Tiến Công – ThS Nguyễn Nam Hà - Khoa RHM