X-quang ngực qui ước: Hình ảnh XQ bình thường trong giai đoạn ủ bệnh 3 - 14 ngày). Các bất thường có thể xuất hiện vài ngày sau khi chụp lần đầu. Thường bắt đầu từ tổn thương một thùy sau đó lan ra nhiều thùy, từ một phổi lan ra hai phổi. 75-98% NB có tổn thương hai phổi. Tổn thương gặp trên XQ là hình kính mờ và hình đông đặc, không đều, ranh giới không rõ. Các bất thường có khuynh hướng ưu thế ngoại vi, phần thấp hai phổi. Một số lượng nhỏ (1%) có kèm tràn khí màng phổi. Khi có bất thường Xquang xảy ra nó thường tiến triển rất nhanh, thường chỉ trong khoảng thời gian vài ba ngày. Khuyến cáo theo dõi chụp Xquang ngực sau mỗi 6 giờ. Hình ảnh Xquang thường tiến triển chậm hơn so với cải thiện lâm sàng. Giảm thể tích phổi và sẹo do tổn thương có thể thấy ở một số người bệnh giai đoạn phục hồi do xơ hóa[1]. [1] New England Juornal of Medicine (2020); " Importation and Human Transmision of a Novel Coronavirus in Vietnam"; DOI 10.1056/NEJMc2001272
Hình 1. X-quang ngực qui ước ở NB nam, 65 tuổi bị viêm phổi do COVID-19 (Lưu ý: NB chụp tư thế nằm ngửa)1
A. Khi NB mới vào viện: Bất thường dạng kính mờ khu vực 1/3 giữa trường phổi
B. 3 ngày sau: Tổn thương dạng đông đặc lan tỏa rộng hơn khu vực 1/3 giữa trường phổi trái song ưu thế phần thấp.
C. Ngày thứ 5: Tổn thương dạng mờ lan tỏa, ranh giới không rõ, ưu thế ngoại vi, phần thấp (2/3 dưới) hai phổi.
D. Ngày thứ 6: Tổn thương lan rộng hơn phim ngày thứ 5, mức độ đông đặc bên trái nặng hơn.
Hình 2. X-quang ngực ở NB nữ, 43 tuổi, viêm phổi do COVID-19 ở Vũ Hán, Trung Quốc
Bất thường dạng trên mức kính mờ (gần với đông đặc), ưu thế 2/3 dưới hai phổi. Lưu ý tổn thương tiến sát bìa phổi.
Cắt lớp vi tính: Tổn thương trên CT ngực tương đồng với hình ảnh Xquang qui ước. Thường xuất hiện hình kính mờ, ưu thế thùy dưới có liên quan đến dày tổ chức kẽ vách liên tiểu thùy hoặc do đông đặc (lấp đầy phế nang) giai đoạn sớm. Đông đặc nhu mô, thường ưu thế ngoại vi, phần thấp, phía sau hai bên. Xơ hóa, rối loạn kiến trúc, giãn phế quản do kéo (giai đoạn muộn). Hạch bạch huyết lớn trung thất, rốn phổi thường không thấy. Tràn dịch màng phổi thường hiếm gặp. Khi bệnh thoái lui tổn thương đông đặc dần chuyển thành kính mờ và biến mất.
Hình 3. HRCT ở NB nữ, 33 tuổi bị viêm phổi COVID-19 ở Vũ Hán, Trung Quốc
A. Hình kính mờ, ranh giới không rõ vùng phân thùy II hai phổi.
B. 3 ngày sau hình kính mờ lan rộng, ưu thế ngoại vi rõ ràng.
Hình 4. Hình CLVT cửa sổ phổi ở bé trai, 8 tuổi bị viêm phổi COVID-19 ở Vũ Hán, Trung Quốc
- Các lát cắt từ cao xuống thấp cho thấy hình kính mờ, đông đặc, ưu thế phần thấp, phía sau hai bên.
+ Hình ảnh viêm phổi do chủng COVID-19 mới còn rất hiếm song qua các ca bệnh đã có chẩn đoán xác định cũng đã hé mở cho chúng ta thấy được các đặc điểm hình ảnh của điện quang ngực của căn bệnh này.
+ Tùy thuộc vào giai đoạn bệnh mà có các hình ảnh khác nhau (pha sớm: kính mờ, chủ yếu do tổn thương phù kẽ; pha muộn: mờ lan tỏa do đông đặc, ranh giới không rõ). Các giai đoạn tổn thương thường ưu thế phần thấp, phía sau là chủ yếu.